Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Công bố những sai sót chết người trong kỳ án vườn mít (3)


Những điều bất thường trong lời khai của cô bé 9 tuổi


Nhân chứng duy nhất trực tiếp nhìn thấy người thanh niên chở nạn nhân Út đi là cháu Hằng. Tòa xử sơ thẩm lần hai xác định lại một lần nữa lời khai của cháu Hằng không chỉ mâu thuẫn với lời khai của bị cáo Mai mà còn mâu thuẫn với chính lời của cháu Hằng ở những lần lấy lời khai khác nhau.


Tại bản khai ngày 15/11/2004, cháu Hằng khai: “…khoảng 09 giờ có một thanh niên cao 1,55m, khoảng 18 đến 20 tuổi, mặc áo màu xanh, quần màu đen, đầu đội nón lá, đi xe máy màu xanh, trên xe chở một bình xịt thuốc rầy màu xanh loại 14 đến 16 lít và có chở thêm một bình đựng nước đá màu đỏ treo ở ghi đông xe máy… cháu có báo cho bà bác biết Út đi xe máy với người ta rồi”.











Nhân chứng trực tiếp Thị Hằng (cô gái ngồi hàng đầu) có những lời cáo buộc Mai phạm tội tày trời, nhưng trong lời khai của cô rất nhiều mâu thuẫn
Nhân chứng trực tiếp Thị Hằng (cô gái ngồi hàng đầu) có những lời cáo buộc Mai phạm tội tày trời, nhưng trong lời khai của cô rất nhiều mâu thuẫn

Lời khai này phù hợp lời khai của ông Điểu Ky (cha của cháu Út), phù hợp với báo cáo số 159 của Công an huyện Bình Long và thông báo xử lý tin trực ban hình sự số 1505 của Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra (Công an tỉnh Bình Phước). Theo hai văn bản của công an, đến 15 giờ 30 phút ngày 16/11/2004, sau khi phát hiện xác cháu Út, vẫn chưa xác định được người thanh niên chở cháu đi là ai.


Thế nhưng bất ngờ tại bản khai lúc 14 giờ 10 phút và 15 giờ 20 phút cùng ngày (trước giờ chốt tin báo cáo của công an - PV), cháu Hằng lại khai người thanh niên chở cháu Út đi là Mai, thỉnh thoảng gặp vẫn biết mặt Mai (?).


Kết luận của đại diện viện kiểm sát đề cập Mai là người làm thuê cho ông Tuân từ năm 2001 nên nhiều người biết mặt, trong đó có cháu Hằng. “Vấn đề đặt ra nếu Hằng biết Mai thì ngay ban đầu về cháu Hằng báo cho gia đình và khai tại cơ quan công an người chở Út đi phải là Mai chứ không phải khai là người thanh niên chở Út đi”, tòa nhận định.


Về nhân chứng Điểu Ky, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm lần hai, anh đều khẳng định sự việc biết được đều do con mình là cháu Hằng kể lại. Nhưng các lời khai này không chỉ mâu thuẫn với lời khai của Mai mà còn mâu thuẫn với chính lời khai của chính anh.


Tại đơn trình báo gửi công an xã một ngày trước khi phát hiện xác cháu Út và bản khai lúc 13 giờ 20 phút ngày 16/11/2004, anh khai cháu Hằng kể có một thanh niên chở cháu Út đi. Nhưng đến cuối bản khai lúc 13 giờ 30 phút ngày 16/11/2004, anh lại khai “nghi cho Nguyễn Bá Mai – Sinh năm 1979 vì qua miêu tả của Hằng thì Điều Ky ghi như vậy”.


Lời khai này mâu thuẫn với lời khai trước đó của anh và lời khai của anh lúc 8 giờ ngày 17/11/2004: “Tôi và bố Thị Út đến rẫy của ông Tuân, đi bằng xe honda. Khi đến chòi rẫy ông Tuân, thấy có 03 người đang ăn cơm, trong 03 người này tôi không biết ai cả” (một trong ba người đang ăn cơm là Lê Bá Mai – PV).


Tại phiên tòa, Điểu Ky cũng khai “qua miêu tả đặc điểm người thanh niên mà Hằng kể, tôi hỏi có phải Mai không?”. Sau đó anh thay đổi lời khai, xác định người thanh niên chở cháu Út đi là Mai mà không lý giải được vì sao tại đơn trình báo công an xã, anh lại ghi là “người thanh niên” chứ không khẳng định là Mai.


Anh còn khai do cháu Hằng tả đặc điểm người thanh niên chở cháu Út đi nên nghi cho Mai, mâu thuẫn ở chỗ cháu Hằng khai người thanh niên cao 1,55m, trong khi căn cứ vào danh chỉ bảng trong hồ sơ vụ án thì Mai cao tới 1,7m.


Lời khai của công an cũng mâu thuẫn


Một nhân chứng khá quan trọng khác là ông Trần Văn Sinh, lúc phát hiện xác nạn nhân Út thì ông đang là công an viên của xã. Ông Sinh là người tiếp nhận thông tin và là người ghi lời khai đầu tiên của nhân chứng trực tiếp Thị Hằng, nhưng lời khai ban đầu này lại mâu thuẫn với lời khai của Mai và cả lời khai của ông Sinh.


Lời khai của ông Sinh tại phiên tòa sơ thẩm lần hai và tại biên bản ghi lời khai ngày 19/3/2008 thể hiện: “lúc đó Hằng khai đặc điểm người, đồ vật, xe và nói đó là Mai ở trong chòi anh Tuân… nhưng vì thận trọng nên tôi không ghi vào biên bản”.


Nhưng tại lời khai ngày 3/10/2007 và biên bản ghi lời khai ngày 8/4/2008, ông Sinh lại khai: “Hằng khai người thanh niên chở Út đi giống Mai chứ không khẳng định chắc chắn là Mai”. Ông Sinh cũng không lý giải được vì sao lời khai của ông lại mâu thuẫn như trên.


Người ở chung với Mai là anh Nguyễn Văn Trong cũng mâu thuẫn với lời khai của Mai, lời khai của cháu Hằng lẫn lời khai của bản thân anh Trong. Có lúc anh khai vào ngày cháu Út mất tích, Mai ở nhà không đi đâu cả. Có lúc lại khai rải phân xong về chòi Mai thay đồ rồi lấy xe đi, không mang theo gì cả. Tại phiên tòa, anh Trong cho biết vì quá lâu nên không nhớ rõ sự việc.


Về đồ vật Mai mang theo vào ngày nạn nhân mất tích, toàn bộ lời khai của cháu Hằng từ trước khi khởi tố vụ án đến các phiên tòa (ngoài lời khai đầu tiên thấy một người thanh niên) đều khai Mai đi xe máy, mang bình xịt màu xanh, bình nước đá màu đỏ và khẳng định không có sự nhầm lẫn giữa bình xịt màu xanh và bình xịt inox. Trong khi đó, ông Tuân xác định trong chòi rẫy của ông không có bình xịt màu xanh và bình nước đá màu đỏ.


Từ những mâu thuẫn cơ bản nêu trên, tòa sơ thẩm lần hai cho rằng dù Mai có những lời khai nhận tội nhưng lời khai nhận tội đó còn nhiều mâu thuẫn với lời khai của người đại diện hợp pháp của nạn nhân, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng; mâu thuẫn với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản giám định pháp y, biên bản thực nghiệm điều tra, vật chứng của vụ án. Có căn cứ kết luận ngay từ ban đầu, cháu Hằng chưa khẳng định người chở cháu Út đi là Mai.


***


Tòa sơ thẩm lần hai viện dẫn Khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự: “Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội”.


Tòa cho rằng cơ quan điều tra chưa điều tra đầy đủ các yêu cầu của án giám đốc thẩm. Tại phiên tòa, đại diện viện kiểm sát không chứng minh được một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ và thống nhất các mâu thuẫn nêu trên. Do đó chưa có căn cứ vững chắc kết án Lê Bá Mai phạm tội như cáo trạng cáo buộc. Hội đồng xét xử đã tuyên Mai vô tội, trả tự do ngay tại tòa. Thế nhưng rất tiếc là sau đó một thời gian, Mai bị bắt giam lại, án sơ thẩm lần hai cũng bị hủy.


Theo Xa lộ pháp luật





www.nguoiduatin.vn

Back to TOP